Có lẽ đêm nay là
đêm cuối cùng của tôi trên dương gian này! Cách đây một tháng, căn bệnh xơ gan
cổ trướng tái phát, và tôi biết đã đến lúc tôi phải lên đường, từ giã cuộc sống
lữ hành trần gian… Bác sĩ đã chẩn đoán là căn bệnh của tôi sẽ không kéo dài hơn
một tháng. Chúa ơi, lẽ nào giờ đây tôi đang phải trải qua những giây phút sau
cùng của đời mình? Thân xác tôi càng lúc càng rả rời hơn…! Tôi cố đưa mắt nhìn
lại thân xác mình lần cuối cùng. Cái thân xác mà trước đây ngày nào tôi cũng kề
cận, nhưng chưa khi nào nhìn kỹ như hôm nay. Tôi không muốn lìa xa nó chút nào.
Giờ tôi mới cảm nghiệm được thế nào là cái từ: Chết!
Hơn 25 năm trong
đời sống linh mục, tôi đã chứng kiến biết bao cái chết, đã giảng biết bao bài
giảng lễ an táng, đã khuyên nhủ biết bao tang quyến. Thế mà hôm
nay tới lượt mình, tôi lại thấy lo sợ. Có lẽ tôi không sợ cái chết cho bằng sợ
cảm giác đánh mất chính mình. Đúng hơn, tôi không muốn giã từ cuộc sống này,
tôi vẫn muốn làm con người!
Tôi bắt đầu nhớ lại
hành trình cuộc đời mình, khởi đầu từ những trường hợp khó quên trong cuộc sống
linh mục. Một ông lão mắc bệnh lao giai đoạn cuối. Ông phải ở trong một căn phòng như cái chuồng gà. Con cái phải
dựng cho ông một cái chòi để ở riêng. Nền nhà thay vì tráng xi-măng hay gạch hoa
như thường lệ, thì lại được rắc cát trắng vào để dễ hút mùi hôi tanh sau những
lần thổ huyết của ông.
Tôi nhớ lúc đó là
hơn 12h đêm, có tiếng gõ cửa nhà xứ dập dồn, tôi mở ra thì thấy con trai lớn
của ông.
- Ba con sắp đi rồi
cha, xin cha tới ban phép xức dầu cho ba con.
Tôi vội vã sửa soạn
hành trang rồi theo anh ta. Cách “cái chuồng” của ông vài chục mét đã nghe mùi
tanh tanh rồi. Tôi xin một cái bàn, trải khăn thánh, thắp nến, đặt Thánh Giá và
Mình Thánh Chúa lên đó.
- Chào ông, tôi
mang Chúa đến với ông đây.
- Xin Cha đừng vào
chỗ này, kẻo lây bệnh đó. - Ông nói trong tiếng nấc.
- Không sao, ông cứ
yên tâm.
Mọi người cũng
khuyên tôi là không nên vào, vì đây là giai đoạn cuối của căn bệnh lao và là
thời kỳ dễ lây nhiễm nhất. Tôi cũng hơi run, nhưng làm sao bây giờ, không vào
thì làm sao giải tội được. Tôi không nói gì, lặng lẽ bước vào ngồi bên cạnh
ông.
- Ông dọn mình rồi
xưng tội để đón Chúa nhá!
- Dạ!
Tôi giúp ông xét
mình và ông bắt đầu xưng tội. Nửa chừng, một cơn ho dữ dội bộc lên, ông thổ
huyết. Máu phụt ra và ướt hết nửa khuôn mặt của tôi. Mọi người đứng phía ngoài
cũng ồ lên một tiếng rõ to, ai cũng lo lắng cho tôi và … tôi cũng lo lắng không
kém. Tôi nhẹ nhàng đưa tay vào túi áo dòng, rút chiếc khăn lau vết máu trên
mặt, rồi ôn tồn:
- Không sao, ông
hãy tiếp tục!
- Con xin lỗi. -
Nói rồi, ông tiếp tục xưng tội một cách xác tín và thánh thiện.
Sau khi cho ông
lãnh các bí tích sau cùng, tôi về tới nhà xứ đúng 2h sáng. Tôi chạy ngay vào
nhà vệ sinh rửa mặt thật kỹ, chà đi chà lại mà lòng vẫn lo lắng.
“Cốc, cốc, cốc”…
lại có tiếng gõ cửa. Tôi bước ra thì con trai lớn của ông báo tin là ông đã về
với Chúa trong tình trạng rất thánh thiện. Tôi lẩm nhẩm điệp khúc “khi Chúa thương gọi tôi về…” và lên
giường ngủ, lòng rất an vui và nhẹ nhõm.
Giờ đây không biết
ông lão trên thiên đàng có nhớ tôi không. Tôi lo lắng. Lúc này, tôi đang đi
đoạn đường cuối mà ông đã đi qua. Tôi cũng muốn cất tiếng hát “khi Chúa thương...” nhưng sao khó quá.
Tôi hát không nổi. Tại sao hát điệp khúc này hát cho người khác thì dễ, mà hát
cho chính mình khó thế? Và rồi, một trường hợp khác lại xuất hiện trong đầu
tôi. Nhà ấy có một đứa con trai, vừa ngoan hiền vừa giỏi giang. Thi đậu vào lớp
10 trường công lập xong, thằng nhỏ xin ba mẹ đi chơi suối với chúng bạn, rồi bị
vấp ngã chết. Người mẹ ngồi bên cạnh xác con với khuôn mặt lạnh tanh ngây dại,
đôi mắt khô rang đăm đăm không buồn chảy một giọt nước. Có lẽ đối với bà, nước
mắt lúc này cũng trở nên vô nghĩa với nỗi đau mà bà đang gánh chịu.
Nghe tin, tôi ghé
tới trong tư cách là bổn phận của người chủ chăn, để hiệp thông
chia sẻ và cầu nguyện cho con bà. Trong khi cộng đoàn hát tới điệp khúc “khi Chúa thương gọi tôi về….” thì người
mẹ chợt bộc phát: Thương gì lạ vậy mà thương! Ai cũng giật mình khi nghe bà
nói, nhưng rồi mọi người đều im lặng như để an ủi bà. Vì lúc này, cho dù là ai
và cho dù có khuyên gì đi nữa cũng không lấp nổi nỗi đau này.
…
Tôi bắt đầu nhớ lại
những bài học trong Đại Chủng Viện, đặc biệt là môn “cánh chung luận”. Khi đó
chúng tôi bàn luận và tranh cãi rất sôi nỗi về những sự sau cùng: chết, phán
xét, thiên đàng, hỏa ngục. Sao lúc ấy tôi bàn luận hăng say và sôi nổi đến thế!
Chắc là vì lúc ấy tôi còn rất trẻ và có cảm giác như cái chết còn rất xa. Nếu
bây giờ được sống lại giây phút ấy chắc tôi không dám nói gì nhiều. Mà đâu phải
riêng tôi, hình như con người là như thế. Khi mình còn trẻ, có khi nào nghĩ tới
cái chết đâu. Hồi đó, mỗi buổi sáng chạy bộ ra bãi biển Nha Trang, tôi chỉ thấy
toàn người già đi tập thể dục. Điều này như minh chứng cho điều mà người đời
thường nói: tuổi già mới sợ cái chết!
Tôi tiếp tục nhớ
lại những bài giáo lý vỡ lòng. Những hình ảnh về cuộc giao tranh giữa Thiện và
Ác mà các soeurs dạy giáo lý minh họa cho trẻ con dễ nhớ bài. Rồi tới những bài
hát trong lễ đám tang. Có một điều tôi vẫn lấy làm khó hiểu là: Tại sao giáo lý
dạy chết là cuộc trở về với Cha trong hân hoan, nhưng trong lễ an táng, tôi
không thấy mang chút âm hưởng gì của sự hân hoan ấy. Từ cách trang trí bàn thờ,
cho tới lễ phục của chủ tế, thậm chí là những giai điệu của thánh ca phụng vụ
lễ an táng cũng mang âm hưởng trầm buồn. Lúc còn trẻ, tôi cũng từng thấy khó
chịu về cách bài trí như thế. Nhưng giờ này, tôi lại thấy thấm thía hơn, không
biết tại sao nữa.
Trời ơi, sao hôm
nay tôi lại suy nghĩ những chuyện vu vơ thế nhỉ? Con người tôi đang bị giằng co
dữ dội giữa sự lưu luyến và sự từ bỏ. Dù không muốn nhưng sự quyến luyến cuộc
sống vẫn xuất hiện trong tôi. Tôi nhớ giáo dân của tôi quá chừng! Những bàn tay
chai sạm, những nét mặt đen đủi với những nụ cười nhăn nheo của họ đã thắp cho
tôi bao nhiêu hy vọng. Giờ đây, tôi chuẩn bị lìa xa tất cả. Cả cuộc đời linh
mục của tôi, đi không cần hành trang, đến không cần điểm tựa. Vậy mà lúc này
tôi cảm thấy ra đi khó quá chừng. Tôi cố hít một hơi thật sâu và thả lỏng toàn
thân tối đa như là một chiến thuật trên bước đường từ bỏ. Nhưng ôi, sao khó
quá! Tôi bắt đầu kêu xin Thầy tôi trợ giúp: “Lạy Thầy Giêsu, xin giúp con biết
từ bỏ chính mình để theo Người mãi mãi, và giúp con hát lên điệp khúc “khi Chúa thương gọi tôi về…” bằng cả
trái tim”!
…
Tôi đang suy nghĩ
miên man thì tiếng trẻ con văng vẳng cất lên:
Thiên đàng địa ngục hai quê
Ai khôn thì về, ai dại thì sa
Đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha
Đọc kinh cầu nguyện, kẻo sa linh hồn
Linh hồn phải giữ linh hồn
Đến khi mình chết được lên thiên đàng.
Bài đồng dao của
trẻ con đang chơi đùa trong sân giáo xứ đưa tôi về lại với tuổi thơ của mình.
Tôi đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Bầu trời vẫn cao cao. Các vì sao lấp lánh như đang
vẫy chào tôi. Tôi mĩm cười mà nước mắt lưng tròng.
Reng, reng, re…e…ng…
Tiếng đồng hồ báo thức điểm 3h30 sáng. Tôi giật
mình tỉnh giấc. Hóa ra, nãy giờ tôi đang mơ một giấc mơ thật dài. Tôi hít một
hơi thật sâu để định thần lại mình đang ở đâu. Tôi làm Dấu Thánh Giá dâng ngày
cho Chúa. Sau đó, tôi chuẩn bị mọi thứ để dâng thánh lễ. Thánh lễ sáng nay là
lễ an táng cho một thanh niên trong giáo xứ mới bị tai nạn giao thông hôm
trước, để lại người vợ trẻ măng và hai đứa con nhỏ xíu. Và một câu hỏi lóe lên
trong đầu tôi: Có nên khởi đầu bài giảng bằng điệp khúc quen thuộc “khi Chúa thương gọi tôi về…” nữa hay
không?
Nhạn Đình
(Nha Trang)
Giải Triển Vọng Viết Văn Đường Trường 2013
(Nha Trang)
Giải Triển Vọng Viết Văn Đường Trường 2013
0 Nhận xét